Thứ Sáu, 3 tháng 5, 2019

Nhà thơ Bùi Đăng Sinh-Một hồn thơ đẹp.


NHÀ GIÁO-NHÀ THƠ BÙI ĐẶNG SINH
                                   MỘT HỒN THƠ ĐẸP
                                                ( Lê Hùng )

                 Nhà giáo-nhà thơ Bùi Đặng Sinh sinh ngày 13/3/1940 tại Bình Đà, Thanh Oai, Hà Nội trong một gia đình có truyền thống hiếu học.
                 Năm 1961 ông trúng tuyển vào khoa Văn-.Trường Đại học Sư Phạm Hà Nội. Năm 1964 Ông tốt nghiệp với tấm bằng loại ưu và trở thành giáo viên Trường cấp 3, trường sư phạm trung cấp trong tỉnh Vĩnh Phúc.Năm 1971, ông nhập ngũ và từng chiến đấu ở chiến trường B5- thành cổ Quảng Trị, nới chiến trận ác liệt và oai hùng. Năm 1975, trở về  tiếp tục giảng dạy văn tại các trường Trung học Phổ thông (THPT) tỉnh Vĩnh Phúc. Bằng kinh nghiệm của một người đã từng qua chiến trường , thầy giáo Bùi Đăng Sinh đã truyền cho họ kiến thức và những bài học về giá trị cuộc sống, sự hy sinh và nhân phẩm con người. Các thế hệ học trò của ông hiện nay rất nhiều người đã trưởng thành và nắm những chức vụ chủ chốt trong xã hội.

Năm 1993, ông nghỉ hưu và bắt đầu làm nhiều thơ, làm biên tập thơ ở Hội VHNT tỉnh Vĩnh Phúc, cộng tác viên Nhà Xuất bản Hội Nhà văn.  Cả một đời sống giản dị, chân thành, ông luôn giữ cho mình một tâm hồn lạc quan, nhiệt huyết.. Thơ của ông thấm đậm tình cảm với quê hương, thiên nhiên, con người đầy chất lãng mạn, thi vị, tràn đầy hào sảng, lạc quan và yêu đời. Đọc thơ ông người ta mới thấy tiếng nhạc trong đó, lời thơ mộc mạc tràn đầy cảm xúc, một tâm trạng rất riêng của mỗi người. Chả thế mà nhà văn Nguyễn Tuân sau khi đọc bài thơ của ông “Đường Tuần Giáo Lai Châu năm 1963, được đăng trên báo Cứu Quốc và được nhận giải thưởng, thì chúc ông :” Chúc anh thi sỹ trẻ Bùi Đăng Sinh trẻ mãi với thơ hay, thơ mà càng hay thì một đời càng trẻ mãi “.
                Những tác phẩm tiêu biểu của ông :
      - Nơi đợi chờ nhau ( NXB Lao động -1994)
                - Tôi đi tìm tôi ( NXB Hội Nhà văn -1997)
                - Nhìn lại ngày mai ( NXB Lao Động -1998)
                - Thăm thẳm ( NXB Hội Nhà văn -2004)
                - Mắt bão ( NXB Hội Nhà văn -2006)
                - Văn hóa dân gian Vĩnh Phúc ( Sở VHTT Vĩnh Phúc-2007)
                - Hương thời gian ( NXB Hội Nhà văn 2009)
                - Thơ lục bát Bùi Đặng Sinh ( NXB Hội NV -2011)
                - Đám cưới sao ( NXB Hội NV 2012).
( Hiện nay ông đang chuẩn bị xuất bản 1 vài tập thơ và tiểu luận )
              Với những đong góp không nhỏ của mình, ông đã được trao nhiều phần thưởng cao quý : +Giải thưởng Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam.
                             +Giải thưởng VHNT Hùng vương năm 1994.
                             +Giải thưởng VJNT Vĩnh Phúc các năm 2000, 2005, 2010…
   Ngoài những phần thưởng Nhà nước, ông còn được tặng Huy chương Vì sự nghiệp VHNT Việt Nam, Vì sự nghiệp Giáo dục, Kỷ niệm chương MT Đường 9-Quảng Trị, Kỷ niệm chường Cựu giáo chức, CCB Việt nam..v…v…
                Đặc biệt, ngày 16/12/2015, Ông đã được Viện Khoa học nghiên cứu Nhân tài Nhân lực Việt nam phong tặng Danh hiệu “ Trí thức Việt Nam vì sự phát triển cộng đồng”. Tháng 3/2017, ông được TW Hội Phát triển nguồn nhân tài-nhân lực Việt Nam tôn vinh “ NHÂN TÀI ĐÁT VIỆT THỜI ĐẠI HỒ CHÍ MINH” Cùng tháng 12/2017, tại chương trình Hội nghị Quốc tế UNESCO “ Kết nối toàn cầu”, ông vinh dự được Chủ tịch Liên hiệp UNESCO thế giới-Chủ tịch UNESCO Việt Nam tặng danh hiệu và Cúp vàng “ Vì sự nghiệp giáo dục , khoa học,văn hóa theo tiêu chí UNESCO. 
              Ông đã được ghi danh trên ấn phẩm Niên giám niên lịch và sự kiện Việt nam ( 5/22017) và ấn phẩm Nhà sáng nghiệp Việt Nam  và thế giới ( 10/2017) và ấn phẩm “ Gương mặt tiêu biểu hội nhập toàn cầu ( Tropical Face of global intergration 8/2018).
             Ông cũng là một trong những người đầu tiên xây dựng Câu lạc bộ thơ Việt Nam, với tư cách Phó chủ tịch-Phó Tổng biên tập, ông  liên tục trực tiếp và chủ lực  làm công tác biên tập các ấn phẩm “ Hương đất Việt” Người yêu thơ”của Câu lạc bộ thơ Việt Nam .
( Tài liệu tham khảo :Niên lịch và sự kiện Việt Nam ( Vietnam almanac ) 2017….  )

                       

Kỷ lục gia : Tiến sỹ Đặng văn Phú



Nhà thơ-Tiến sỹ Đặng văn Phú
Nhà khoa học tỏa sáng trên nhiều lĩnh vực.
                                                                          ( Lê Hùng)

           Nhà thơ – Tiến sỹ  Đặng Văn Phú  sinh ngày 3/11/1939 tại  xã Xuân Hồng, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định trong một gia nghèo có truyền thống hiếu học. Bản thân ông luôn chăm chỉ học hành, coi việc học vừa là niêm vui, vừa là trách nhiệm với gia đình, dòng họ.
     Sau khi tốt nghiệp đại học với tấm bằng loại ưu, năm 1968 ông được về công tác tại Viện Khoa học công nghệ xây dựng, tại đây ông không ngừng say mê học hỏi, nghiên cứu, tích lũy kinh nghiệm và đẫ trưởng thành nhanh chóng.Năm 1980 ông được bổ nhiệm chức vụ Trưởng Phòng Nghiên cứu Hóa xây dựng/.Năm 1983, ômg đã bảo vệ thành công luận án Phó tiến sy.Năm 1986 ông đợc cử đi thực tập sinh cao cấp tại Ucraina. Chính thời gian đó, nhờ sự giúp đỡ tận tình của các giáo sự, bạn bè đồng sự và sự nỗ lực bản thân, ông đã tích lũy nhiều kinh nghiệm góp phần vào việc có nhiều đề tài nghiên cứu cấp nhà nước, cấp bộ. Các đề tài về chống ăn mòn trong bê tông cốt thép ở vùng nước biển, sơn silicat chịu nhiệt và trang trí, dùng cát biển để sản xuất bê tông ..v…v..đã góp phần ứng dụng có hiệu quả trong thực tiễn.
             Năm 2000 Ông về nghỉ hưu theo chế độ. Sống giản dị, chân thành, bên người vợ hiền Mai thị Minh Đức, nguyên là một cán bộ y tế huyện Từ Liêm, nghỉ hưu. Hai ông bà luôn lấy công việc xã hội, từ thiện làm vui .Đặc biệt ông đã nghiên cứu ứng dụng năng lượng cảm xạ trong điều trị các bênh nan y, mà ông là một lương y gia truyền. Ông cũng thành công trong việc ứng dụng cảm xạ học, phong thủy trong việc tìm mộ liệt sỹ, xây dựng, trấn trạch, dự báo …  Kết quả đó luôn để lại trong lòng mọi người niềm cảm phục và biết ơn. Nhờ thành công này mà Hội Đông Y Việt nam đã tặng ông bằng khen, Viện Hàn Lâm khoa học sáng tạo thế giới,Viện Nghiên cứu y học cổ truyền thế giới tặng “ Đĩa vàng sáng tạo” và nhân kỷ niệm 60 năm giải phóng thủ đô, Ông đã được vinh danh là Trí thức tiêu biểu vì sự phát triển Thủ đô.
             Đặc biệt trong sự nghiệp thơ ca, Ông là một trong những người say mê sáng tác và nghiên cứu, trong đó ông đã thành công trong việc sáng tác nhiều bài thơ Đường, thơ lục bát, thơ hát ví, ca trù dưới dạng “thuận nghịch độc”
             Trong vòng 9 năm ( 2005-2014) ông đã xuất bản 7 tập thơ , trong đó có 5 tập thơ thuận nghịch độc : Hượng vị cuộc đời- Trăng Ngàn-Vườn đào-Bình minh
Sắc xuân ( lục bát hai chiều thuận nghịch độc) Chia se- (thơ ca trù hát nói thuận nghịch độc) –Hẹn xưa ( thơ ca trù hát nói ). Bằng sự tìm tòi sáng tạo trong thể hiện nghệ thuật với những hình ảnh và biện pháp tu từ độc đáo, kỳ công, khiến người đọc cảm nhận xự súc cảm trong tâm hồn nhà thơ-nhà khoa học.
           Ngoài ra, ông cũng đã có 8 bài thơ  khắc trên bia đá, để tặng nhiều nơi quan trọng như : Nhà thờ Hưng đạo đại vương, nhà thờ họ Đặng, các nghĩa trang Trường Sơn, thành cổ Quảng Trị, Ngã ba Đồng Lộc, nới thờ 10 nữ liệt sỹ tại hà Nam 
              Với thành công đó, ông đã nhận được 7 kỷ lục Việt Nam và 1 bàng kỷ lục thế giới :” Người sáng tác nhiều về các thể loại thơ thuận nghịch độc nhất ( 2019).
             Ông cũng được trao  nhiều phần thưởng : Bằng khen  của TW Hội Người Cao tuổi, Liên hiệp khoa học kỹ thuậ VN, t  Hội Kinh tế Môi Trường, Hội khuyến học Việt Nam. Tháng 6/2017, Ông vinh dự được TW Hội Khoa học và công nghệ Việt Nam trao tặng Danh hiệu “Trí thức Việt Nam tiêu biểu thời đại Hồ Chí Minh”.
          Tại Chương trình hội nghị Quốc tế Unesco “ Kết nối toàn cầu”, năm 2017 ông đã vinh dự được Chủ tịch UNESCO thế giới-Chủ tịch UNESCO Việt nam trao tặng danh hiệu và cúp vàng “ Vì sự nghiệp Giáo dục-khoa học-Văn hóa theo tiêu chí UNESCO “ .
         Ông cũng là một trong những thành viên đầu tiên xây dựng Câu lạc bộ thơ Việt nam 17/6/2006. Tại Đại hội lần thứ nhất Câu lạc bộ Thơ Việt nam thành phố Hà Nội, ông đã được bầu vào Ban chấp hành Khóa 1 ( 2006-2010) Ông còn được TW Hội Người Cao tuổi Việt Nam cử làm phó giám độc Trung tâm Văn hóa Người Cao tuổi Việt Nam,  tham gia  BCH Hội Kinh tế Môi trường Việt Nam.. !
Mới đây ông đã được mời tham gia Hội đồng khoa học Viện Nghiên cứu thực phẩm chức năng do Bác Sỹ-Nghệ sỹ Nguyễn Hữu Trọng làm Giám Đốc.
        Ông đã nhiều lần nhận Bằng khen và Bằng vinh danh do Ban chấp hành Câu lạc bộ thơ Việt Nam trao tặng./. 

  ( Tài liệu tham khảo Ấn phẩm : Gương mặt tiêu biểu hội nhập toàn cầu- Tropical face of global intergration -sách do LH các Hội UNESCO Việt Nam ấn hành tháng 8/2018)  

Vũ Mão, nhà ngoại giao có tâm hồn nghệ sỹ

         
                       VŨ MÃO- NHÀ NGOẠI GIAO CÓ TÂM HỒN NGHỆ SỸ..
                                                                                       
            Ngày 8/7/2017, lễ trao bằng kỷ lục Quốc gia : “Người sáng tác nhiều ca khúc về các địa danh nổi tiếng trên thê giới
   cho nhạc sỹ-nhà thơ Vũ Mão do Ủy Ban đối ngoại Quốc Hội nước CHXHCN Việt Nam và Tổ chức  Kỷ lục Việt Nam đã được tổ chức trọng thể tại Hội trưởng Văn phòng Quốc Hội.
            Như mọi người đều biết  năm 1939, Ông Vũ Mão  sinh ra tại Hà Nội, quê gốc xã Hải An, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định. Năm 1949, ông làm liên lạc viên của Quân giới Việt nam, sau đó tham gia Thiếu sinh quân. Sau một thời gian học văn hóa tại Nam Ninh-Trung Quốc, năm 1960 Ông học tại Học Viện Thủy Lợi và sau khi tốt nghiệp được giữ lại trường làm cán bộ giảng dạy. Năm 1971, Ông được điều chuyển vê công tác Ty thủy lợi tỉnh Quảng Ninh kinh qua các chức vụ Đội trưởng, Phó rồi Trưởng ty và năm 1979 được bầu làm Phó bí thư Huyện ủy Tiên Yên, tỉnh Quảng Ninh.
            Từ năm 1980, ông đảm nhiệm chức vụ Bí thư tỉnh đoàn Quảng Ninh và năm 1982 được bầu làm Bí thư thứ nhất Trung Ương Đoàn thanh niên Cộng sản Việt Nam. Từ năm 1982-2006, ông đã được bầu vào Ban chấp hành TW Đảng Cộng sản Việt Nam các khóa 5,6,7,8,9 . Ông được bầu vào Quốc hội khóa 8 tháng 5/1987 và kinh qua nhiều nhiệm vụ quan trọng trong Quốc hội nước CHXHCN Việt nam từ khóa 8 đến khóa 11 : Ủy viên Hội đồng Nhà Nước, Chủ nhiệm Ủy ban Thanh, thiếu niên và Nhi đồng, Chủ nhiệm văn phòng Quốc hội, từ tháng 7/2002 đến 2007 là Chủ nhiệm Ủy ban đối ngoại Quốc Hội, Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội .Ông từng là Tổng thư ký Quốc hội các nước ASEAN ( AIPO-2002). Ông được biết đến như một người khởi xướng và tổ chức sáng kiến đổi mới hoạt động hoạt động của Quốc Hội Việt nam
        Ông nghỉ hưu tháng 1/2008, hiện nay vẫn hoạt động không mệt mỏi trong nhiều công việc : Ông đảm nhiệm các chức  vụ : Chủ tịch Hội Hữu nghị Việt Nam-Cămpuchia, Trưởng Ban liên lạc Cựu cán bộ Đoàn Thanh niên Trung Ương, Trưởng ban Liên lạc Thiếu sinh quân Việt Nam, Chủ tịch Câu lạc bộ Cựu Đại Biểu Quốc Hội, đặc biệt được Ông được Câu lạc bộ Thơ Việt Nam  suy tôn là Chủ tịch Danh Dự ( từ nhiệm kỳ 1 2008 đến nay )
          Trải qua gần 60 năm hoạt động cách mạng gắn bó với nhiều lĩnh vực công tác quần chúng và công tác lãnh đạo, ông luôn quan tâm và thấu hiểu mọi khía cạnh nhân tình thế thái, luôn có cái nhìn thẳng thắn, lạc quan và luôn hứng khởi với mọi biến động của cuộc sống đời thường. Ông mở lòng với thiên nhiên, trong sáng với quan niệm triết lý sâu sắc về đạo đức, nhân phẩm và giá trị con người.
            Ông đánh giá cao sự đóng góp của các thế hệ đại biểu quốc hội nước ta, chính vì vậy Ông dồn tâm huyết cho tác phẩm “Dấu son nghị trường” tập I xuất bản năm 2015, theo ông : Quốc hội là nơi tụ hội trí tuệ của dân
tộc, đi đầu trong công cuộc đổi mới, góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo  vệ Tổ Quốc.Trong sự nghiệp lớn lao đó, nhiều đại biểu quốc hội rất tiêu biểu. Họ thuộc nhiều tầng lớp xã hội với nhiều thế hệ khác  nhau, vừa có tâm vừa có trí, hết lòng phụng sự nhân dân vì tương lai tốt đẹp của Dân tộc và Tổ Quốc”
             Đặc biệt trong lính vực văn thơ, Ông là một chính khách đặc biệt, luôn biết sử dụng ngôn ngữ văn chương( thơ-nhạc) để biểu thị ý chí-tâm hồn và ước nguyện của nhân dân-thế hệ trẻ Việt Nam-mà ông luôn coi mình là người có vinh dự được đại diện. Ông quan niệm: Phải sống và làm việc sao cho thế hệ tương lai của mình được sống trong những nụ cười.
                Trải qua  những năm tháng đẹp nhất của thời thanh niên sôi nổi, những tháng năm đáng ghi nhớ của một người làm công tác chính trị-xã hội, ông luôn giữ được cho mình một tâm hồn trẻ trung, yêu đời và cũng trong những chuyến đi, những lần tiếp xúc, ông ghi lại những cảm nghĩ, những khoảnh khắc đáng nhớ về thiên nhiên, về vẻ đẹp của những vùng miền trên đất nước, những ánh mắt nụ cười, tình yêu lứa đôi và cả mối ân tình của mình với vợ, con, là những người gắn bó với ông trong suốt cuộc đời. Do đó ông có những trang thơ, những nốt nhạc thật sống động và tha thiết.
              Chỉ trong thời gian từ 1998 đến nay, ông có một gia tài đồ sộ về thơ-văn-nhạc:
             Những tập thơ : Hương sắc (1998), Dòng thu( 2000),Thao thức (2005), Khát vọng xanh ( 2006), Tự lòng ( 2006), Lộng gió bốn phương ( 2007) ,Sắc hương cho đời (2009) Xanh xa ( 2010)
             Truyện ký : Mãi còn tin yêu ( 2012) –Dấu son nghị trường ( 2015)
              Nhạc : Ca khúc chọn lọc (1999) 10 tình khúc ( 1997) Những miền quê yêu dấu ( 2001) Bài ca xe buýt Hà Nội ( 2003) Giai điệu quê hương (2005)
             Đặc biệt nhân dịp vinh dự nhân được kỷ lục quốc gia về âm nhạc, ông đã xuất bản tập ca nhạc :”Khúc ca bạn bè năm châu” tập hợp 64 bài  hát viết về các nước ông đã từng ghé thăm.
                   Một nhà hoạt động chính trị biết nắm lợi thế văn chương, nhất là thơ-nhạc để nói lên ước nguyện hòa bình-hữu nghị của dân tộc Việt là một sự độc đáo, hiếm có. Chính là phương tiện, cầu nối giữa những trái tim và nỗi lòng của các dân tộc trên trái đất cùng hướng về một mục tiêu cao cả ;Hòa Bình-Hữu nghị.
                       Với Việt Nam, thấm đậm hồn thơ dân tộc, trước nay có nhiều, từ cổ chí kim vẫn còn vang mãi lời thơ cảm khái của Lý Thường Kiệt : Nam quốc sơn hà Nam đế cư, hoặc những bài thơ còn truyền tụng của Lê Thánh Tông, Tự Đức, sau này có Hồ chí Minh, Sóng Hồng, Xuân Thủy…nhưng kết hợp thơ với nhạc có lẽ chỉ có trong con người Vũ Mão. Ở ông có cái đa tài trong nhiều lĩnh vực, cái đa dạng trong biểu thị cõi lòng và hơn thế là biểu hiện cao nhất của một trái tim nhậy cảm và nhân hậu của một người nghệ sỹ./.( Lê Hùng)


Sự kiện và nhân vật : Tổ chức Kỷ lục VN ( Vietkings)

                 SỰ KIỆN VÀ NHÂN VẬT
                                                               ( Lê Hùng )
         BBT. Năm 2018 đánh dấu một dấu son trên con đường xây dựng và phát triển Câu lạc bộ Thơ Việt Nam. Trong đó việc Tổ chức Kỷ Lục Việt Nam tặng bằng “ Xác nhận kỷ lục Việt Nam cho CLB thơ Việt Nam “ là một sự kiện đáng nhớ nhất.bên cạnh đó một số thành viên Câu lạc bộ đã được giới thiệu trên một số báo chỉ, ấn phẩm : Gương mặt tiêu biểu hội nhập toàn cầu, Chân dung nhà sáng nghiệp Việt Nam và thế giới, Tinh hoa Đất Việt v..v..
                     Nhân dịp kết thúc năm 2018, chào đón xuân Kỷ Hợi, xin trân trọng giới thiệu những sự kiện và nhân vật tiêu biểu của năm 2018..

               TỔ CHỨC KỶ LỤC VIỆT NAM (VIETKINGS)
                                         ( 2004- 2018 )
                   Tổ chức Kỷ lục Việt Nam- Hội Kỷ lục gia Việt nam là một tổ chức xã hội hoạt động theo quyết định thành lập của Bộ Nội Vụ ( QĐ 969/QĐ/BNV) là đơn vị xác lập kỷ lục tại Việt nam. Tổ chức Kỷ lục Việt Nam là đơn vị duy nhất xác lập kỷ lục của Việt nam.
                   Trải qua gần 13 năm hoạt động, trong lĩnh vực tìm kiếm và vinh danh những giá trị nổi bật của đất nước, con người Việt nam, Tổ chức kỷ lục Việt Nam đã xác lập trên 1.800 kỷ lục tại 63 tỉnh, thành phố, kết nối với cộng đồng hàng ngàn kỷ lục gia trong và ngoài nước.
                    Tổ chức Kỷ lục Việt Nam là đại diện duy nhất của Liên minh Kỷ lục Thế giới ( World kings) Hiệp Hội Kỷ lục thế giớ ( WRA)-Đại học Kỷ lục thế giới ( WRU) –Tổ chức kỷ lục Châu Á ( Asea Book of Record)- Tổ chức Kỷ lục Đông Dương ( Indochina Book of Record ) tại Việt nam.
                    Hội đồng tư vấn  xác lập kỷ lục Việt Nam của Tổ chức Kỷ lục Việt Nam gồm 100 vị, trong đó có 21 vị  là Thường trực HĐTV, là các nhà khoa học, nhà sử học, nhà báo, các chuyên gia –chuyên viên hàng đầu trong tất cả các lĩnh vực đã tham gia tích cực trong các hoạt động tìm kiếm đề xuất các kỷ lục Việt Nam.
                     Những kỷ lục độc đáo đã được xác lập : ví dụ :Nguyễn Phùng kỷ lục gia siêu trí nhớ được đề xuất lên thế giới.
                     5 kỷ lục về Truyện Kiều : + Truyện Kiều-Thi phẩm duy nhất chắp nhặt những câu thơ ở những chỗ khác nhauddeer thành nhiều bài thơ mới ( hiện tượng Tập Kiều)
                      + Truyện Kiều thi phẩm dài có nhiều bản dịch nhất ra cùng 1 ngoại ngữ ( 10 bản dịch khác nhau ra tiếng Pháp)
                     + Truyện Kiều thi phẩm có nhiều người viết tiếp theo nhất , đặc việt nổi bất  là tất cả đều viết thành thơ.
                     + Truyện Kiều –thi phẩm duy nhất đọc ngược từ cuối lên đầu về cuộc đời nàng Kiều theo chiều thời gian ngược.
                      + Truyện Kiều -Thi phẩm duy nhất tạo ra loại hình văn hóa Kiều, với các hình thức phong phú, như : Bình Kiều, vịnh Kiều, bói Kiều, tập Kiều, đố Kiều, câu đối Kiều, phú-văn tế Kiều, các giai thoại quanh truyện Kiều….
  ………………………..
                     Ngoài những ví dụ trên chúng ta được biết : Làng lụa Vạn Phúc ( Hà Đông) là làng nghề dệt lụa tơ tằm lâu đời nhất ( hơn 1.000 năm) còn duy trì đến ngày nay…
                    Trong Câu lạc bộ chúng ta, có những cá nhân đã vình dự được xác nhận Kỷ lục Việt Nam :
                   1/ Nhà thơ-nhạc sỹ Vũ Mão- Chủ tịch danh dự Câu lạc bộ Thơ Việt Nam- Kỷ lục gia Việt Nam
: Người sáng tác nhiều ca khúc về các địa danh nổi tiếng trên thê giới ( năm 2017)  

                   2/ Tiến sỹ Đặng Văn Phú ( CLB Thơ Việt Nam thành phố Hà Nội) đạt 6 Kỷ lục Việt Nam và 1 Kỷ lục thế giới là “ Người sáng tác nhiều về các thể loại thơ thuận nghịch độc nhất “ ( từ năm 2014-2017)
                  3/ Bác sỹ-Nghệ sỹ Nguyễn Hữu Trọng : Đã tham gia xác lập kỷ lục Hội Lim quốc gia năm 2012.
                  3/  Ngày 28/10/2018, Câu lạc bộ thơ Việt Nam  đón nhận Bằng xác nhận Kỷ Lục Việt Nam :” Câu Lạc bộ Thơ có số lượng  hội viên nhiều nhất Việt Nam ”.

               
Trân trọng và tự hào về những đóng góp  của hàng ngàn, hàng vạn hội viên đã xây dựng và phát triển Câu lạc bộ để trở thành một tổ chức xã hội đang phấn đấu hoàn thành  sứ mệnh trọng đại : Góp phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc như Nghi quyết của Đảng đã chỉ rõ và để đáp ứng ý nguyện và sự tin tưởng của Ban Tuyên giáo TW, Bộ Nội Vụ, Bộ Văn Hóa –Thông Tin nay là Bộ Văn hóa –Thể thao-Du Lịch khi ra các văn bản cho thành lập Câu lạc bộ Thơ Việt Nam./. 

Bài về TRung tướng Nguyễn Phúc Thanh

                       NGƯỜI HỘI VIÊN THỨ 10.000 ĐÃ RA ĐI.
                                                                               Lê Hùng
                   Theo thông báo cảu Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam, Chủ tịch Nước CHXHCN Việt Nam, Chính Phủ Nước CHXHCN Việt Nam, Ủy ban Trung ương Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam, và gia đình :
                      Đồng chí NGUYỄN PHÚC THANH, sinh ngày  23/6/1944, quê quán xã Khai Thái, huyện Phú Xuyên, tỉnh Hà Tây cũ ( nay là thành phố Hà Nội), thường trú tại số nhà 38, ngõ 9, đường Nguyễn Tri Phương, Phường Điện Biên, quận Ba Đình Hà Nội, tham gia hoạt động cách mạng năm 1964, vào Đảng ngày 8-2-1966, Ủy viêm BCH Trung Ương Đảng các khóa VIII,Ĩ, nguyên Phó chủ tịch Quốc Hội nước CHXHCN Việt Nam, Chủ nhiệm Ủy ban Quốc Phòng và An ninh  Quốc hội khóa X, khóa XI, đại biểu Quốc Hội các khóa X, XI..
                        Tham gia quân đội NDVN tháng 11/1964, tại tiểu đoàn 2, trung đoàn 9, Sư đoàn 304. Đ/c đã trải qua nhiều cấp chỉ huy trong quân đội.Từ 1994, đồng chí lần lượt đảm nhiệm các chức vụ : Phó chủ nhiệm , Quyền chủ nhiệm và Chủ nhiệm Tổng Cục Hậu cần .Tháng 10-1994, đồng chí được phong quân hàm Trung tướng.
            Trên 50 năm hoạt động cách mạng, đồng chí đã có nhi9eeuf đóng góp cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và của dân tộc, đồng chí được Đảng, Nhà Nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Chiến công hạng nhất Huy hiệu 50 năm tuổi Đảng và nhiều Huân, huy chương cao quý khác.

             Do tuổi cao, sức yếu, đã từ trần hồi 12h15 ngày 8-2-2019, tức ngày 4 tháng giêng năm Kỷ Hợi. Lễ tang của đồng chí tổ chức theo nghi thức cấp Nhà nước vào ngày  20/2/2019.
                        Đồng chí Nguyễn Phúc Thanh rất yêu văn thơ. Do vậy nhiều lần đồng chí tỏ ý muốn tham gia các hoạt động của Câu lạc bộ thơ Việt Nam.
                          Đáp ứng nguyện vọng của đồng chí, ngày 16/6/2016, Ban chấp hành Câu lạc bộ Thơ Việt Nam đã lòng trọng kết nạp đồng chí làm hội viên thứ 10.000 của Câu lạc bộ trước sự chứng kiến của hàng ngàn đại biểu các cơ quan Trung Ương, thủ đô Hà Nội và các Câu lạc bộ thơ Việt Nam các tỉnh, thành phố  tham dự  Lễ kỷ niệm 10 năm thành lập Câu lạc bộ Việt Nam ( 17/6/2006-17/6/2016) tại thủ đô Hà Nội.
                           Trong thời gian đồng chí lâm bệnh, nhiều đoàn lãnh đạo và hội viên Câu lạc bộ đã đến bệnh viện Trung Ương Quân đội 108 thăm hỏi và ngày Lễ tang 20/2/2019, Đoàn đại biểu Câu lạc bộ thơ Việt nam do Đại tá-Nhà thơ Trần Minh Hân, Quyền Chủ tich Ban chấp hành Câu lạc bộ Thơ Việt Nam dẫn đầu, đã đến viếng và tiễn đưa người hội viên đáng kính của Câu lạc bộ về nơi an nghỉ cuối cùng./.  

Chủ Nhật, 28 tháng 4, 2019

Bình Bài thơ Hoa cỏ may của Xuân Quỳnh

SỔ TAYTHƠ
          HOA CỎ MAY.
                  
Xuân Quỳnh
Cát nắng,sông đầy, cây ngẩn ngơ
Không gian xao xuyến chuyển sang mùa
Tên mình ai gọi sau vòm lá
Lối cũ em về nay đã thu.

Mây trắng bay đi cùng với gió
Lòng như trời biếc lúc nguyên sơ
Đắng cay gửi lại bao mùa cũ
Thơ viết đôi dòng theo gió xa
Khắp nẻo dâng đầy hoa cỏ may
Áo em vô ý cỏ găm đầy
Lời yêu mỏng mảnh như mầu khói
Ai biết lòng anh có đổi thay ?
           Lời bình của TRẦN BÁ GIAO.
Năm 2018 kỉ niệm 70 năm báo Văn Nghệ,chúng ta nhắc nhiều đến các văn nghệ sỹ đã mất, những văn nghệ sỹ đã cống hiến lớn lao cho nền văn học nghệ thuật Việt Nam. Trong số những văn nghệ sỹ ấy, tôi nhớ nhiều đến vợ chồng Lưu Quang Vũ- Xuân Quỳnh, vì năm 2018 cũng là kỉ niệm 30 năm ngày mất của đôi vợ chồng văn nghệ sỹ tài hoa đó. Tôi đã đọc các tác phẩm của họ với niềm cảm phục và tiếc thương vô hạn .Tôi mong muốn có dịp viết sâu hơn về họ. Nay tôi chỉ xin bình bài thơ HOA CỎ MAY củả Xuân Quỳnh.
           Bài thơ tác giả không dề thời điểm sáng tác, nhưng nếu đọc nội dung và các bài thơ được nhà thơ Văn Long tuyển chọn, ta có thể đồn đoán rằng Xuân Quỳnh viết bài thơ này vào năm 1986 ( hai năm trước khi Quang Vũ-Xuân Quỳnh và cháu Quỳnh Thơ qua đời bởi một  tai nạn thảm khốc ).
           Bài thơ gồm 3 khổ thơ được viết theo thể thơ 7 chữ. Điều đặc biệt là cách ngắt nhịp ở bài thơ này. Mỗi dòng 7 chữ ấy được ngắt làm 3 nhịp : 2-2-3 và ý tứ cũng được gửi vào từng đoạn thơ ấy . Tôi rất thích cách ngắt nhịp để ý trong bài thơ này .
          Khổ thơ đầu bài thơ, Xuân Quỳnh nói về mùa thu với không gian nhấn mạnh bảng lảng, đầy quyến rũ :
Cát nắng, sóng đầy, cây ngẩn ngơ
Không gian xao xuyến chuyển sang mùa

Tên mình ai gọi sau vòm lá
Lối cũ em về nay đã thu..
           Không gian mà Xuân Quỳnh tả trong bài thơ này có cát, có sông, cỏ cây. Hai câu thơ đầu ấy gợi mở về hình ảnh thân thuộc với nhà thơ. Hình ảnh của cát, của sông và cây gắn liền với thời tiết chuyển mùa tạo cho người ta cái cảm giác ngẩn ngơ, xao xuyến. Để rồi nhà thơ tưởng tượng hay là thực đây : “Tên mình ai gọi sau vòm lá”Cảm xúc của nhà thơ là cảm xúc về những kỉ niệm của quê hương,khi : Lối cũ em về, để thấy nay đã chuyển mùa: nay đã thu .
                        Cảm xúc trước cảnh vật là cảm xúc xao xuyến, bâng khuâng, con người như hòa quyện vào thiên nhiên, làm người đọc cũng xao xuyến với nhà thơ.
                                            Mây trắng bay đi cùng với gió
                                            Lòng như trời biếc lúc nguyên sơ
                                            Đắng cay gửi lại bao mùa cũ
                                            Thơ viết đôi dòng theo gió xa.
                    Khổ thơ hay, lay động lòng người đọc.Câu thơ tả cảnh mà đầy cảm xúc,ưu tư. Cảnh thật đẹp: Mây trắng bay đi cùng với gió. để rồi lòng người xao xuyến : Lòng như trời biếc lúc hoang sơ.
                     Nhà thơ đang có tâm sự và không ngần ngại bộc lộ tâm sự đó trong thơ mình.
                                           Đắng cay gửi lại bao mùa cũ.
                                          Thơ viết đôi dòng theo gió xa.

                    Viết theo thể thơ 7 chữ, nhưng không viết theo thể thơ Đường luật vì thế nó tự do hơn.
                   Cảm xúc được giãi bày một cách tự nhiên và lôgic. Tâm thế nhà thơ hòa vào với cảnh vật, rất ưu tư nhưng không bi lụy, đó là sự ưu tư chấp nhận và vượt lên, gửi vào trong thơ. Câu thơ vì thế có sức nặng của chiều sâu cảm xúc.
                  Tên đề bài thơ : Hoa cỏ may, chắc nhà thơ cũng từng biết đến những giai thoại huyền tích về hoa cỏ may, nên gửi lòng mình với Hoa cỏ may.Một điều nữa cũng rất thực tế : Xuân Quỳnh đang trong khung cảnh của mùa thu,đã cảm nhận thấy nay đã thu. Mùa thu có hoa cỏ may, nhà thơ lại đang đi trên con đường
                                        Khắp nẻo dâng đầy hoa cỏ may
                                        Áo em vô ý cỏ găm đầy 
                                        Lời yêu mỏng mảnh như mầu khói
                                        Ai biết lòng anh có đổi thay .?
                  Trong bài thơ Hoa cỏ may này,Xuân Quỳnh có dụng ý khi ở từng khổ thơ cứ hai câu đầu tả cảnh và dẫn chuyện, thì hai câu sau là cảm xúc, là tâm sự. Khổ thơ vì thế sâu sắc hơn, lay động lòng người hơn.
                 Tâm sự của tác giả được gửi gấm ở những câu thơ cuối của từng khổ thơ. Để phác họa được bức tranh về mùa thu, khung cảnh ở đây có cát nắng với sông đầy,với gió mây, với vòm lá để rồi có hoa cỏ may găm đầy vào áo, gợi mở những suy tư trong tiết trời chuyển mùa, chấp nhận, vượt qua đắng cay của những  mùa qua. Thế nhưng lòng không thể dối lòng, khi :
                                          Lời yêu mỏng mảnh như màu khói
                                          Ai biết lòng anh có đổi thay ?
                Vợ chồng Xuân Quỳnh-Lưu Quang Vũ đã xa thế giới này, nên ta cũng không nên bàn về hoặc thêu dệt thêm về những câu chuyện xoay quanh họ. Ở đây ta có thể hiểu tâm trạng của nhà Xuân Quỳnh. Một nhà thơ nữ với bản tính vị tha, bao dung, nhưng cũng lại cũng yếu đuối trong tình cảm để mà đồng cảm với chị ở 2 câu kết của bài thơ:
                 Đó phải chăng cũng là tâm trạng của những người phụ nữ Việt Nam đằm thắm, bao dung và cũng rất yếu mêm trong khi yêu.
                 Cảm ơn thi sỹ Xuân Quỳnh đã rất thực và cũng rất tinh tế khi viết về tình yêu của mình ./.        

                             

Thứ Sáu, 26 tháng 4, 2019

Một bài thơ hay viết về mẹ

MỘT BÀI THƠ HAY VIẾT VỀ MẸ
      
TRỞ VỀ SAU CHIẾN TRANH
                                 Bình Nguyên
Con về sau cuộc chiến tranh
Gặp bao trang lứa đã thành đại gia
Run run mừng tủi mẹ già
Đón con nước mắt như là tiễn con

Xa nhà xuống bể lên non
Bước chân lối thẳm ốc mòn
                                            con qua
Tuổi xuân bỏ lại rừng già
Hay đâu bóng mẹ trăng tà hôm mai

Con về đã cạn đời trai
Đứng thương cánh liếp then cài gió mưa
Khói từ bếp trấu mùn cưa
Lại thơm như tựa ngày xưa mỗi chiều
Con về cà pháo canh riêu
Bát cơm mẹ nén bao điều đớn đau
Tóc con nay đã ngả màu
Tìm đâu thấy sợi trên đầu mẹ xanh

Gió mùa thổi buốt mái tranh
Thổi qua đời mẹ mà thành đời con
Tấm thân còi cọc con còn
Xin vun tuổi mẹ cho tròn trăm năm ./.
                                                   Lời bình của Lê Huy Hòa
         
Tôi đã đọc rải rác trên báo sách tạp chí hàng trăm bài thơ ( cả thơ Việt và thơ Tây) viết về người mẹ. Nhưng mãi đến năm 2001, mới có tập “ Bờ sông vẫn gió” , tuyển tập thơ về mẹ do hai nhà thơ Tuyết Nga và Chu Thị Thơm sưu tầm, tuyển chọn ( NXB Giáo dục 1999). Và gần đây có thêm tập “ Mừng tuổi mẹ” do nhà thơ Lại Hồng Khánh chủ biên ( NXB Dân trí 2017). Cả hai tập thơ nói trên các nhà thơ chỉ tuyển chọn thơ viết về mẹ. Nói chung, người tuyển chọn đã có “ con mắt xanh” nên đa số những bài thơ trong 2 tập đều hay.
          Bài thơ “ Trở về sau chiến tranh” của nhà thơ Bình Nguyên cũng là bài thơ hay viết về mẹ nhưng không có mặt trong 2 tập thơ nói trên, có lẽ do tác giả chưa cho in trên báo trước đó, hoặc sáng tác ở  thời điểm sau khi 2 tập sách đã ra đời.
          Bài thơ nói về người con ( là bộ đội) trở về sau cuộc chiến. Hoàn cảnh trở về của anh có sự may mắn là : Trở về  khi người mẹ anh vẫn còn sống. Nhiều người lính khi trở về mẹ đã mất, hoặc ngược lại, mẹ vẫn còn, vẫn đợi, nhưng các anh mãi mãi không về .
          Người con trong bài thơ của Bình Nguyên trở về trong hoàn cảnh : Con về sau cuộc chiến tranh/ Gặp bao trang lứa đã thành đại gia/ Run run mừng tủi mẹ già/ Đón con nước mắt như là tiễn con.Bạn bè trang lứa nhiều người đã thành đại gia. Còn người con của mẹ vẫn chỉ là người lính khi tuổi đã ngả chiều và sức trai đã cạn. Tuổi xuân bỏ lại rừng già/ Hay đâu bóng mẹ trăng tà hôm mai/ Con về đã cạn đời trai/ Đứng thương cánh liếp then cài gió mưa.
          Gặp lại mẹ trong hoàn cảnh ấy, mẹ càng thương anh hơn và anh lại thấy xót xa thương mẹ đến quặn lòng. Giọt nước mắt ngày xưa mẹ tiễn con đi chiến trường đã cạn, bây giờ đón con vẫn thương xót : Run run mừng tủi mẹ già/Đón con nước mắt như là tiễn con. Hai giọt nước mắt lặn qua cuộc chiến tranh tàn khốc đều mặn chát thương cảm như nhau.
          Câu thơ Bình Nguyên có sức gợi, ám ảnh người đọc khi anh chọn được những hình ảnh đầy gợi cảm : Con vè đã cạn đời trai/ Đứng thương cánh liếp then cài gió mưa. Chợt nhớ thơ Trúc Thông : Cây cau cũ, giại hiên nhà/Còn nghe gió thổi sông xa mấy lần. Và câu thơ Bình Nguyên ở những đoan sau làm ta dịu bớt nỗi xót xa, yên tâm hơn khi dấu của mẹ với những gì ngày xưa anh đã từng được mẹ chăm sóc :
                             Con về cà pháo canh riêu/
  Cho dù : Bát cơm mẹ nén bao nhiêu điều đớn đau.
          Và cho đến câu thơ cuối bài một chi tiết rất đặc trưng khi viết về mẹ mới xuất hiện, đó là mái tóc mẹ: Tóc con nay đã ngả mầu/Tìm đâu thấy sợi trên đầu mẹ xanh. Chỉ có điều là tóc mẹ bạc trắng, tóc con cũng đã ngả màu. Bao da diết thương yêu trong hai mái đầu tóc bạc.               
 Nhà thơ Phạm Đình Ân cũng có 2 câu thơ hay có ý
nghĩa tương đồng : Trải ghềnh thác tự nguồn cao/ Tóc xanh mẹ chảy cạn vào đời con.
Kết thúc bài thơ là lời cầu chúc mẹ sống trọn cõi trăm năm :
                   Tấm thân còi cọt con còn
           Xin vun tuổi mẹ cho tròn trăm năm.
       Tứ thơ không mới, nhưng Bình Nguyên đã biết chọn một“tình huống thơ” riêng , có nhiều điều để nói và những
điều đó là tâm trạng của hai con người  ( mẹ và con) đã tạo được sự đồng cảm,thương yêu và chia sẻ.
        Tôi biết nhà thơ Bình Nguyên viết bài thơ này từ  hoàn cảnh thực của anh. Anh từng là người lính trở về và người mẹ trong bài thơ chính là mẹ anh.Có lẽ vậy mà bài thơ có sức rung động rất sâu đậm.
                      Trích báo Văn Nghệ số 23 ( 9/6/2018)-Lê Hùng